Danh mục - mục tin liên kết
Danh mục - mục tin liên kết
Danh mục - mục tin liên kết

Khó khăn, vướng mắc trong tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành

9:4, Thứ Sáu, 6-10-2017

Sau khi Luật thanh tra 2010 ra đời, giai đoạn 2011-2016, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của ngành Thanh tra được xây dựng, hoàn thiện một cách đồng bộ, toàn diện và có chất lượng nhằm tạo ra một khuôn khổ thể chế thống nhất cho việc triển khai các nhiệm vụ công tác. 

CÁC KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH

Ths. Nguyễn Thị Hải Yến

Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ

 

1.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH

Sau khi Luật thanh tra 2010 ra đời, giai đoạn 2011-2016, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của ngành Thanh tra được xây dựng, hoàn thiện một cách đồng bộ, toàn diện và có chất lượng nhằm tạo ra một khuôn khổ thể chế thống nhất cho việc triển khai các nhiệm vụ công tác.

Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành 06 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra 2010[1], 18 Nghị định tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành và 02 Nghị định ban hành quy chế giám sát tài chính và quy định về giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ quyết định của chủ sở hữu[2].      Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 12/2014/QĐ-TTg ngày 27/01/2014 quy định chế độ bồi dưỡng đối với công chức thanh tra chuyên ngành; Thanh tra Chính phủ đã ban hành 09 thông tư hướng dẫn chung, các bộ, ngành đã ban hành hơn 25 thông tư, quyết định hướng dẫn hoạt động thanh tra chuyên ngành.

Nhìn lại quá trình phát triển của ngành thanh tra, có thể thấy rằng tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành là vấn đề được quan tâm trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này cũng như tổ chức thực hiện trên thực tế.

Trong giai đoạn thực hiện Luật Thanh tra năm 2004 chưa có văn bản pháp luật quy định về cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các tổ chức thực hiện chức năng thanh tra trong phạm vi quản lý của các cục, tổng cục, chi cục nên xuất phát từ yêu cầu quản lý, một số tổng cục, cục đã thành lập đơn vị chuyên trách thực hiện chức năng thanh tra. Luật Thanh tra năm 2010 đã khắc phục được những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành bằng việc quy định hệ thống cơ quan thực hiện chức năng thanh tra bao gồm các cơ quan thanh tra và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra chuyên ngành, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, trình tự, thủ tục hoạt động thanh tra chuyên ngành, cụ thể như sau:

1. Về tổ chức các cơ quan thanh tra chuyên ngành

Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã xác định rõ các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra bao gồm: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện và các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ở các tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở. Luật Thanh tra 2010 có quy định về thanh tra chuyên ngành theo hướng mở rộng, tăng cường hoạt động của thanh tra chuyên ngành, hoạt động của thanh tra chuyên ngành không chỉ được tiến hành bởi Thanh tra bộ, Thanh tra sở, nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành còn được giao cho cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, đó là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, theo lĩnh vực bao gồm tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở. Căn cứ quy định của Luật Thanh tra, các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức sắp xếp lại các cơ quan thanh tra ở các tổng cục, cục, chi cục nhằm đảm bảo nguyên tắc mỗi bộ, ngành chỉ có một tổ chức thanh tra.

Xét về tổ chức các cơ quan thanh tra, với quy định như trên là phù hợp với nguyên tắc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước hiện nay, tạo sự thông suốt từ Trung ương đến địa phương, đồng thời không làm phát sinh thêm các cơ quan thanh tra nhưng vẫn đảm bảo được vị trí, vai trò của hoạt động thanh tra trong phục vụ quản lý nhà nước, đặc biệt là hoạt động quản lý của các cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực.

2. Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra chuyên ngành

Cơ quan thanh tra chuyên ngành bao gồm thanh tra bộ, thanh tra sở và các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.

Việc ban hành Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo khung pháp lý quan trọng để nâng cao vị trí, vai trò của các cơ quan thanh tra nói chung, thanh tra bộ, thanh tra sở, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành nói riêng, tăng cường tính chủ động, tính tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan thanh tra chuyên ngành, Thủ trưởng các cơ quan thanh tra chuyên ngành trong việc ra quyết định thanh tra, kết luận thanh tra, quyết định xử lý trong và sau thanh tra.

Luật thanh tra năm 2010 đã bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn nhằm nâng cao tính chủ động, tính độc lập tương đối cho các cơ quan thanh tra chuyên ngành; tập trung tăng cường các nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra chuyên ngành; phân định, làm rõ các nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra với nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động thanh tra chuyên ngành; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra chuyên ngành với nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan thanh tra chuyên ngành. Qua theo dõi việc thực hiện các quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra tại các bộ, ngành, địa phương đã được thực hiện tốt, tạo điều kiện thuận lợi, phát huy vai trò, vị trí của các cơ quan thanh tra chuyên ngành.

3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra, người ra quyết định thanh tra chuyên ngành

Nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra, người ra quyết định thanh tra chuyên ngành đã được quy định cụ thể hơn trong Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đánh giá của các bộ, ngành, địa phương trong quá trình triển khai thực hiện các quy định này đều thuận lợi, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

4. Về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra chuyên ngành

Luật Thanh tra đã quy định rõ hơn về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra chuyên ngành, thanh tra đột xuất và phân công thanh tra viên tiến hành thanh tra độc lập. Các quy định này đã góp phần tạo thuận lợi rất nhiều cho công tác thanh tra chuyên ngành; bảo đảm nguyên tắc  hoạt động thanh tra nhanh nhạy, kịp thời phát hiện và xử lý ngay các sai phạm. Đáng chú ý nhất là trong hoạt động thanh tra chuyên ngành ngoài thanh tra theo kế hoạch, thanh tra đột xuất, Luật đã bổ sung hình thức thanh tra thường xuyên theo yêu cầu quản lý, hình thức thanh tra này giúp cho Thanh tra bộ, Thanh tra sở và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành triển khai hoạt động thanh tra theo yêu cầu công tác quản lý và yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước.

Qua nắm tình hình cho thấy, các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra chuyên ngành trong Luật thanh tra và các Nghị định hướng dẫn thi hành đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành phải tiến hành nhanh chóng và đặc biệt là trong nhiều tình huống là xử lý ngay các hành vi vi phạm pháp luật chuyên ngành đảm bảo pháp chế ... Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định đặc thù liên quan đến hoạt động thanh tra chuyên ngành như việc xây dựng Kế hoạch thanh tra chuyên ngành, phê duyệt kế hoạch thanh tra...Tóm lại, trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra chuyên ngành được Luật thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thanh tra chuyên ngành và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hoạt động thanh tra.

5. Một số vấn đề khác

Về việc xây dựng kế hoạch thanh tra, xử lý chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra và theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra; công khai kết luận thanh tra đã được chú trọng, từng bước đáp ứng được nhiệm vụ của công tác thanh tra nói chung, cơ quan thanh tra chuyên ngành nói riêng. Đặc biệt, Luật Thanh tra năm 2010 đã làm rõ trách nhiệm của cơ quan thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, đối tượng thanh tra trong việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra và các chế tài để xử lý đối với các hành vi không thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra, vì vậy, việc thi hành các yêu cầu, kiến nghị, kết luận, quyết định về thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng được thực hiện nghiêm túc hơn, kể từ khi Luật Thanh tra năm 2010 có hiệu thực thi hành.

Tóm lại, hệ thống pháp luật quy định về thanh tra chuyên ngành đã tạo ra hành lang pháp lý cho công tác thanh tra chuyên ngành có hiệu lực, hiệu quả hơn.

II. CÁC KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH

          1. Việc giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.

Việc giao chức năng thanh tra chuyên ngành được thực hiện theo Luật thanh tra 2010; được quy định cụ thể tại Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 9/2/2012 quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành và các Nghị định về tổ chức và hoạt động thanh tra của từng ngành. 

Mặc dù Nghị định 07/2012/NĐ-CP đã quy định cụ thể các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ở các bộ, ngành, tuy nhiên, nhiều nghị định quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ, ngành được ban hành sau đó đã tiếp tục bổ sung cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành với những lý giải, vận dụng khác nhau về Điều 3, khoản 6 của Luật Thanh tra 2010[3], thậm chí phá vỡ tiêu chuẩn về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (gồm tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở). Cụ thể các trường hợp như sau:

- Cảng vụ đường thủy nội địa thuộc Cục đường thủy nội địa, Chi cục đường thủy nội địa, Cơ quan quản lý đường bộ ở khu vực thuộc Tổng cục đường bộ Việt Nam, Trung tâm tần số tuyến điện khu vực thuộc Cục tần số… là các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành mà không phải chi cục thuộc sở theo quy định tại khoản 6, Điều 3 Luật Thanh tra 2010. Việc công nhận các cơ quan nói trên được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là do thực tế đòi hỏi phải có lực lượng thanh tra, kiểm tra tại cấp quản lý nhà nước thấp nhất (chi cục thuộc cục và tương đương).

- Cục Kiểm ngư thuộc Tổng cục Thủy sản, Cảng vụ hàng không thuộc Cục Hàng không, Cảng vụ hàng hải thuộc Cục Hàng hải là cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành vì lý do các điều ước, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên bắt buộc phải có sự hiện diện của cơ quan kiểm soát có hiệu lực của Nhà nước (được hiểu là cơ quan thanh tra) trong việc thực hiện các biện pháp thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là đối với các đối tượng quốc tế.

- Ngoài ra, còn trường hợp đặc biệt là Bảo hiểm xã hội Việt Nam, một cơ quan thuộc Chính phủ, không có chức năng quản lý nhà nước, được giao chức năng thanh tra chuyên ngành bảo hiểm xã hội tại Nghị định 21/2016/NĐ-CP ngày 31/03/2016 quy định việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BH thất nghiệp, BHYT của cơ quan BHXH. Việc giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho cơ quan này vì lý do lực lượng thanh tra bộ và thanh tra sở của ngành lao động – thương binh và xã hội không đáp ứng được đầy đủ yêu cầu thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.

Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang lập Đề án đề nghị giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho chi cục bảo vệ môi trường; Bộ Khoa học và Công nghệ đang trình Chính phủ thông qua Nghị định tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành khoa học và công nghệ trong đó dự kiến giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho chi cục tiêu chuẩn đo lường, chất lượng thuộc Sở khoa học và công nghệ. Tổng cục thủy sản cũng kiến nghị giao chức năng thanh tra chuyên ngành kiểm ngư cho chi cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản vì lý do chi cục có thẩm quyền tương tự kiểm chức năng của lực lượng kiểm ngư, nhưng lại không được giao nhiệm vụ kiểm ngư. Trong khi đó, lực lượng kiểm ngư hiện nay mới được tổ chức ở hai cấp trung ương và cấp vùng, dẫn đến thiếu vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động kiểm ngư tại nhiều địa phương cấp cơ sở,  xảy ra tình trạng buông lỏng việc thanh tra bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại địa phương.

Qua rà soát, đánh giá về thực hiện chức năng được giao về thanh tra chuyên ngành, nhận thấy mức độ thực hiện chức năng này rất khác nhau ở các Tổng cục, Cục thuộc bộ, theo đó một số Tổng cục chủ yếu chỉ thực hiện chức năng thanh  tra, kiểm tra hành chính, rất ít thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (Cục Quản lý thị trường, Tổng cục Lâm nghiệp,....) mặc dù các cơ quan này là cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, không có chức năng thanh tra hành chính.  Đối với các lĩnh vực đặc thù, chủ yếu thực hiện hoạt động kiểm tra như kiểm lâm và quản lý thị trường thì ít khi áp dụng quy trình thanh tra chuyên ngành do quy trình thanh tra chặt chẽ, không phù hợp tới tính chất, đặc điểm của ngành. Ngoài ra, các cơ quan này cũng gặp khó khăn trong việc phân định trường hợp nào tiến hành thanh tra, trường hợp nào thực hiện kiểm tra (Cục Quản lý thị trường).

2. Về tổ chức của các cơ quan thanh tra chuyên ngành và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

2.1. Về bộ phận tham mưu của các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

Về cơ bản, các Nghị định và thông tư về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành (nêu trong phụ lục đính kèm) tuân thủ theo đúng quy định của Luật Thanh tra 2010 và các Nghị định hướng dẫn của Luật Thanh tra 2010 đồng thời cụ thể hóa thêm các quy định của Luật Thanh tra 2010 và Nghị định 07/2012/ND-CP về hoạt động thanh tra chuyên ngành của cơ quan được giao thực hiện chức năng Thanh tra chuyên ngành. Trong đó, về bộ phận tham mưu của cơ quan được giao thực hiện chức năng Thanh tra chuyên ngành, trong các Nghị định, thường quy định các bộ phận tham mưu ở Tổng cục được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành được tổ chức thành Vụ, ở Cục thuộc bộ được tổ chức thành Phòng, ở Chi cục thuộc sở được tổ chức thành phòng. Tên gọi của các bộ phận tham mưu này do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Chỉ có trường hợp ngoại lệ được duy trì Tổ chức thanh tra là  Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (thuộc Bộ Tài chính), Cục Hàng không, Cục Hàng hải, Cục An toàn và bức xạ hạt nhân theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Nghị định 82/2012/ND-CP về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành tài chính xác định bộ phận tham mưu về công tác thanh tra chuyên ngành Chi cục thuộc Cục được tổ chức thành Đội. Nghị định 57/2013/NĐ-CP ngày 31/5/2013 về tổ chức và hoạt động thanh tra giao thông vận tải xác định bộ phận tham mưu về công tác thanh tra chuyên ngành  (điều 15) ở Cục đường sắt Việt Nam, chi cục đường thủy nội địa và Cơ quan quản lý đường bộ được tổ chức thành Đội. Tuy nhiên, hình thức tổ chức Đội không nằm trong hệ thống các đơn vị hành chính của hệ thống hành chính nhà nước, không được quy định tại các văn bản pháp luật (Luật, Nghị định) về hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (theo Nghị định 36/2012/NĐ-CP ngày 18/04/2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu, tổ  của bộ, cơ quan ngang bộ; Nghị định 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định về các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị định 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định về các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện). Tuy nhiên, hình thức đơn vị với tên gọi Đội đã được quy định ở một số văn bản pháp luật chuyên ngành, và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Đội trưởng được quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. Vì đòi hỏi của thực tiễn, bộ phận tham mưu ở một số chi cục thuộc Cục được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành chính thức được Nghị định của Chính phủ thừa nhận dưới hình thức Đội như ở trên.

Điều 9 Nghị định 07/2012/NĐ-CP về bộ phận tham mưu về công tác thanh tra chuyên ngành thì Bộ phận tham mưu về công tác thanh tra chuyên ngành được thành lập tại cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành theo quyết định của người có thẩm quyền. Quy định này cũng không nêu rõ tên gọi của bộ phận tham mưu, chính vì vậy, trong các Nghị định, thường quy định các bộ phận tham mưu ở Tổng cục được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành được tổ chức thành Vụ, ở Cục thuộc bộ được tổ chức thành Phòng, ở Chi cục thuộc sở được tổ chức thành phòng. Tên gọi của các bộ phận tham mưu này do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Do đó, hiện nay nhiều nơi lúng túng chưa sự thống nhất đối với tên gọi của bộ phận tham mưu thanh tra chuyên ngành. Ví dụ: có nơi là Phòng Thanh tra - Pháp chế, có nơi lại là Tổ tham mưu thuộc Chi cục thuộc Sở…). Các bộ, ngành, địa phương đề nghị sớm có hướng dẫn thống nhất vấn đề này.

2.2. Công tác cán bộ của cơ quan thanh tra bộ, thanh tra sở và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

Hiện nay, biên chế của các cơ quan thanh tra bộ, thanh tra sở còn thiếu, không đáp ứng được được đảm bảo để thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Việc luân chuyển cán bộ thanh tra sang cơ quan khác cũng còn tuỳ tiện, gây không rất ít khó khăn cho hoạt động của các cơ quan thanh tra. Qua khảo sát thực tế ở cấp sở và cấp huyện có nơi chỉ có ba cán bộ làm công tác thanh tra. Việc luân chuyển cán bộ thanh tra theo quy định pháp luật hiện hành cũng khó khăn cho cho việc đào tạo cán bộ có kinh nghiệm trong các lĩnh vực chuyên môn.

Đối với các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, sau khi Luật Thanh tra có hiệu lực, việc sắp xếp lại tổ chức, cán bộ, thanh tra viên ở các tổng cục, cục, chi cục được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, trừ thanh tra bộ, thanh tra sở, thì toàn bộ hệ thống thanh tra chuyên ngành thuộc các tổng cục, cục thuộc bộ, cục thuộc tổng cục, chi cục thuộc sở, chi cục thuộc cục, của các cơ quan quản lý nhà nước bị giải thể. Các thanh tra viên tại các tổng cục, cục, chi cục được chuyển đổi thành công chức hanh tra chuyên ngành.   Hiện nay có một số vấn đề nổi lên như sau:

- Các bộ, ngành, địa phương đang lúng túng trong việc đào tạo công chức thanh tra chuyên ngành, cấp thẻ cho công chức thanh tra chuyên ngành vì không có hướng dẫn thống nhất, nên mỗi bộ hướng dẫn cấp thẻ theo thẩm quyền khác nhau.

- Việc chuyển đổi các viên chức làm công tác thanh tra trước đây sang công chức thanh tra chuyên ngành cũng gặp nhiều khó khăn vì các viên chức nếu chuyển đổi sang công chức thì không đủ tiêu chuẩn 5 năm làm công chức để đáp ứng tiêu chuẩn trở thành công chức thanh tra chuyên ngành. Điều này gây ra lãng phí nguồn nhân lực trước đây thực hiện công tác thanh tra chuyên ngành. Ngoài ra, đối với các chi cục thuộc sở, chi cục thuộc cục và tương đương, vấn đề lớn hiện nay là không có hoặc không có đủ nhân sự đủ tiêu chuẩn để trở thành công chức thanh tra chuyên ngành, vì nhân sự ở chi cục thuộc sở, chi cục thuộc cục đa số hoặc tất cả đều là viên chức, không phải công chức (các chi cục thuộc các sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, cảng vụ hàng không, cảng vụ hàng hải, cảng vụ đường thủy nội địa, cơ quan quản lý đường bộ khu vực, ......). Việc không đồng bộ giữa tiêu chuẩn công chức thanh tra chuyên ngành, chỉ tiêu biên chế công chức, viên chức và đòi hỏi thực tế về tăng cường nhân sự thực hiện công tác thanh tra đã gây ra lúng túng và bất cập lớn ở các bộ, ngành, địa phương.

- Ngoài ra, hiện nay đã xoá bỏ lực lượng thanh tra xây dựng cấp quận, huyện, phường, xã và tập trung đầu mối thanh tra cấp sở và bộ. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh hiện nay là việc tiếp nhận lực lượng thanh tra xây dựng đông đảo từ quận, huyện, xã, phường, thị trấn về thanh tra sở gây ra nhiều khó khăn về bố trí công việc, nơi làm việc (địa bàn Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh mỗi nơi có từ 1.700 cán bộ thanh tra xây dựng trở lên). Hoạt động thanh tra xây dựng ở cơ sở có nguy cơ bị buông lỏng và chưa đi vào ổn định hoạt động do quá trình sắp xếp, bố trí lại lực lượng thanh tra xây dựng này.  

2.3. Về vị trí các cơ quan thanh tra  chuyên ngành độc lập trong hệ thống cơ quan thanh tra

Đối với các cơ quan được thừa nhận có tổ chức thanh tra độc lập, có tiêu chuẩn thanh tra viên như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Cục Hàng hải, Cục hàng không, Cục an toàn và bức xạ hạt nhân,  vấn đề cần xem xét là các cơ quan nào thuộc hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước hay thuộc hệ thống cơ quan thanh tra chuyên ngành.

2.4. Về thẩm quyền thanh tra của cơ quan thanh tra chuyên ngành

Nguyên tắc cơ quan thanh tra chịu sự chỉ đạo của cơ quan quản lý cùng cấp trên thực tế đã làm phân tán nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên đối với cơ quan thanh tra cấp dưới và tập trung quyền hạn đó cho cơ quan nhà nước cấp dưới như: thẩm quyền trong bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh Thanh tra cấp dưới, quyền chỉ đạo công tác, tổ chức, nghiệp vụ. Mặt khác, những chế định trên đã đặt vị trí của Thanh tra trong mối quan hệ ràng buộc chằng chịt, nhiều tầng, nhiều lớp đan xen, dẫn đến làm suy yếu tính độc lập của cơ quan thanh tra nhà nước trong hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động thanh tra chuyên ngành nói riêng.

          Ngoài ra, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, có một vấn đề vướng mắc trong thực hiện thẩm quyền thanh tra là các Tổng cục, Cục được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có được thực hiện chức năng thanh tra hành chính đối với các đơn vị trực thuộc mình hay không? Hiện nay, theo Luật Thanh tra 2010 thì cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, ngoài ra, còn có thẩm quyền thanh tra các vụ việc khác do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp giao. Với quy định này, có nhiều quan điểm trái ngược nhau. Có quan điểm cho rằng thẩm quyền ”thanh tra các vụ việc khác do Bộ trưởng, Giám đốc sở giao” được hiểu là thẩm quyền thanh tra hành chính khi được thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp giao. Tuy nhiên, quan điểm khác cho rằng cần hiểu đúng tinh thần của Luật Thanh tra là cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành chỉ có thẩm quyền đối với các Tổng cục, Cục có chức năng quản lý nhà nước sâu, rộng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các đơn vị có chức năng quản lý nhà nước sâu rộng, có nhiều đơn vị trực thuộc như Tổng cục Lâm nghiệp, Cục Thủy lợi, Cục Thủy sản, Tổng cục Thuế, Cục Dược,...thì việc không có thẩm quyền thanh tra hành chính cũng gây ra một số khó khăn trong công tác quản lý nhà nước.

Ngoài ra, còn có vấn đề về thẩm quyền thanh tra chuyên ngành không phù hợp với chức năng quản lý nhà nước và yêu cầu thanh tra, kiểm tra trên địa bàn. Theo phản ánh từ một số địa phương, chi cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản có chức năng quản lý nhà nước như lực lượng kiểm ngư, nhưng không được giao chức năng kiểm ngư, trong khi đó lực lượng kiểm ngư hiện nay mới được tổ chức ở 2 cấp Trung ương và cấp vùng, dẫn đến thiếu hụt hoạt động kiểm ngư tại nhiều địa phương, xảy ra tình trạng buông lỏng thanh tra, kiểm tra các hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại địa phương, cơ sở. 

3. Các khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các quy định pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành

  Về hoạt động thanh tra chuyên ngành, Luật Thanh tra năm 2010, Nghị định 86/2011/NĐ-CP, Nghị định số 07/2012/NĐ-CP đã quy định về hoạt động của đoàn thanh tra chuyên ngành, hoạt động của thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập. Hoạt động thanh tra chuyên ngành gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ nhưng việc tiến hành các hoạt động thanh tra chuyên ngành cũng cần phải tuân thủ quy trình nghiệp vụ thanh tra. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra chuyên ngành khác biệt rất nhiều so với hoạt động thanh tra hành chính, kể cả về mục đích và nguyên tắc. Trong khi đó, theo quy định của Nghị định 07/2012/NĐ-CP về trình tự thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành theo Đoàn không khác nhiều so với hoạt động thanh tra hành chính, chỉ trong trường hợp Thanh tra viên hoặc công chức thanh tra chuyên ngành tiến hành độc lập thì trình tự, thủ tục cũng như vấn đề báo cáo, xử lý thông tin có nhiều điểm khác biệt. Do vậy, việc áp dụng trên thực tế các quy định pháp luật về hoạt động thanht ra chuyên ngành gặp một số khó khăn, cụ thể như sau:

3.1. Về lập kế hoạch thanh tra:

Về việc lập kế hoạch thanh tra, nhằm khắc phục bất cập quy định về thời gian trình kế hoạch của Nghị định 07/2012/ND-CP, Nghị định 82/2012/ND-CP về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành tài chính quy định Bộ Tài chính ban hành Hướng dẫn Kế hoạch thanh tra ngành Tài chính  trước ngày 15 tháng 10 hàng năm, căn  cứ vào Hướng dẫn này, Tổng cục, Cục thuộc bộ trình Kế hoạch của ngành mình để Thanh tra bộ tổng hợp trình Bộ trưởng phê duyệt. Nghị định 90/ND-CP vể tổ chức và hoạt động của thanh tra nội vụ cũng quy định Thanh tra Bộ Nội vụ có trách nhiệm hướng dẫn việc lập kế hoạch thanh tra cho các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành chậm nhất vào 30/10 hàng năm. Đây là điểm cụ thể hóa trong việc lập kế hoạch thanh tra của thanh tra ngành tài chính và ngành thanh tra nội vụ. Sáng kiến xây dựng Hướng dẫn Kế hoạch nói trên được đánh giá là hiệu quả, đặc biệt đối với các ngành lĩnh vực quản lý nhà nước sâu rộng, phần nào tránh được chồng chéo trong hoạt động thanh tra của ngành mình.

Tuy nhiên, về cơ bản, Luật Thanh tra và 2 Nghị định hướng dẫn Luật Thanh tra đều quy định cơ quan tham mưu về công tác thanh tra trình Dự thảo kế hoạch thanh tra cho Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ký phê duyệt trước khi gửi cơ quan Thanh tra cấp trên để tổng hợp báo cáo Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Điểm bất cập trong những quy định như trên là cơ quan thanh tra cấp trên không điều phối đươc và không có quyền điều phối nội dung kế hoạch thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới, nên việc chồng chéo sẽ xảy ra. 9 Nghị định về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành cũng như các thông tư hướng dẫn ban hành sau đó đã nỗ lực hướng dẫn trình tự thủ tục trình và lập Kế hoạch thanh tra để tránh chồng chéo trong hoạt động thanh tra của ngành mình, tuy nhiên, do vướng quy định của Luật Thanh tra 2010, nên việc khử trùng mới dừng lại quy định có Hướng dẫn xây dựng kế hoạch thanh tra, sau khi có Hướng dẫn xây dựng kế hoạch thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, thủ trưởng cơ quan quản lý nha nước cấp dưới ký phê duyệt kế hoạch, gửi cơ quan Thanh tra nhà nước cấp trên để tổng hợp báo cáo Lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Việc tránh chồng chéo trong chính nội dung kế hoạch của các cơ quan của ngành mình ở một số bộ, ngành được xử lý trên thực tế  (trên thực tế, ở một số bộ, ngành, Kế hoạch thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới được gửi xin ý kiến Thanh tra bộ trước khi Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới ký phê duyệt, do đó Thanh tra bộ có thể nắm được những dự thảo Kế hoạch nào trùng nhau để từ đó yêu cầu điều chỉnh từ trước khi ký phê duyệt kế hoạch).

Nhằm khắc phục điều này, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư  01/2014/TT-TTCP hướng dẫn xây dựng Kế hoạch thanh tra và Định hướng xây dựng Kế hoạch thanh tra. Nội dung thông tư đã cụ thể hóa trình tự thủ tục xây dựng Kế hoạch và Định hướng, góp phần quan trọng vào việc tránh tối đa chồng chéo về phạm vi, nội dung, đối tượng, thời gian thanh tra. Trong Thông tư đã đưa ra quy định trong quá trình xây dựng Kế hoạch thanh tra: “Lấy ý kiến của cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên trực tiếp và các cơ quan, đơn vị có liên quan vào nội dung dự thảo Kế hoạch thanh tra khi xét thấy cần thiết”. Quy định này sẽ giúp cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên góp ý về những nội dung chồng chéo với các dự thảo kế hoạch khác. Tuy nhiên, nhiều cơ quan thanh tra tỉnh, thanh tra huyện băn khoăn về việc “trình dự thảo kế hoạch thanh tra” cho thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt, trong trường hợp này thì chủ thể nào là người có quyền ký kế hoạch thanh tra: Chánh thanh tra hay thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp?   Thông tư cũng đưa ra các nguyên tắc xử lý chồng chéo trong quá trình thực hiện Kế hoạch, tuy nhiên, chưa làm rõ thế nào là chồng chéo trong hoạt động thanh tra.

Ngoài ra, các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (Bộ Tài chính, Bộ Y tế...) vướng mắc về thời gian gửi Kế hoạch thanh tra. Theo Điều 36 Luật Thanh tra 2010 thì Định hướng chương trình thanh tra của Chính phủ được phê duyệt chậm nhất vào ngày 30 tháng 10 hằng năm. Trong khi đó, tại Điều 39 Nghị định 07/NĐ-CP quy định “chậm nhất vào ngày 01 tháng 11 hằng năm, Tổng cục, Cục thuộc Bộ căn cứ vào hướng dẫn của Thanh tra bộ và yêu cầu công tác quản lý của mình có trách nhiệm gửi kế hoạch thanh tra đến Thanh tra bộ để tổng hợp, báo cáo Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”. Như vậy, Tổng cục, Cục thuộc Bộ không có thời gian nghiên cứu Định hướng chương trình thanh tra của Chính phủ để ban hành Kế hoạch thanh tra của mình cho phù hợp với Định hướng chương trình thanh tra của Chính phủ. Trên thực tế thì Nghị định 82/ND-CP về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành tài chính và Nghị định 90/ND-CP về tổ chức và thanh tra nội vụ và một số Nghị định khác đã quy định thêm bước hướng dẫn xây dựng kế hoạch thanh tra để các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành xây dựng kế hoạch phù hợp với định hướng chung của toàn ngành.

3.2. Về gửi kế hoạch thanh tra

Nhiều cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành cho rằng việc gửi kế hoạch thanh tra cho đối tượng thanh tra theo Khoản 5, Điều 36 Luật Thanh tra là không phù hợp với đặc điểm ngành họ trong trường hợp Kế hoạch thanh tra chỉ xác định được đối tượng thanh tra theo diện rộng, theo địa bàn, chỉ xác định nhóm đối tượng thanh tra mà không thể xác định được đích danh đối tượng thanh tra trong Kế hoạch thanh tra (thanh tra trong lĩnh vực thuế, an toàn vệ sinh thực phẩm, dược phẩm, cơ sở y tế ...) 

3.3. Về việc sử dụng con dấu của Đoàn thanh tra chuyên ngành

Về nhật ký Đoàn thanh tra, nhiều địa phương đánh giá việc ghi Nhật ký đoàn thanh tra đối với các lĩnh vực thanh tra chuyên ngành mang tính đối phó không có tác dụng trong hoạt động thanh tra tại nhiều thanh tra sở, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

3.4. Về việc thực hiện quyền thanh tra

Việc pháp Luật Thanh tra hiện hành quy định nhiều điểm mới trong việc thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra đã giúp tăng cường  quyền chủ động của các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành như quyền phong tỏa tài khoản, yêu cầu cung cấp thông tin,....  Tuy nhiên, về hoạt động phong tỏa tài khoản, nhiều địa phương phản ánh đối tượng thanh tra có thể có nhiều tài khoản khác nhau tại các ngân hàng ở các địa phương khác nhau nên việc thực hiện phong tỏa tài khoản gặp khó khăn, đăc biệt trong trường hợp các tổ chức tín dụng thiếu hợp tác.

Về hoạt động trưng cầu giám định trong quá trình thanh tra, phí trưng cầu giám định trong nhiều trường hợp quá cao, hoặc phải gửi ra nước ngoài giám định, nên khó áp dụng hoặc không áp dụng được. Hiện nay, chưa có quy đinh thống nhất về vấn đề này nên các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành hiện đang áp dụng khác nhau hoặc gặp khó khăn trong việc trưng cầu giám định. 

Về thực hiện quyền thanh tra, nhiều quan điểm cho rằng những quyền mới được quy định trong Luật Thanh tra 2010 thì ít được sử dụng trên thực tế, nhiều bộ, ngành, địa phương khẳng định “không hề” sử dụng. Tuy nhiên, thực tế thẩm quyền cần thiết là thẩm quyền điều tra để củng cố hồ sơ khi phát hiện dấu hiệu hình sự để chuyển sang cơ quan điều tra lại không có (một số cơ quan khác như hải quan, kiểm lâm cũng có quyền này).

3.5. Về trình tự, thủ tục và các hoạt động khác trong hoạt động Đoàn thanh tra chuyên ngành

*) Đoàn thanh tra chuyên ngành: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 07/2012/NĐ-CP còn có nhiều cách hiểu chưa thống nhất, dẫn đến việc thực hiện chưa đúng hoặc khó thực hiện, cụ thể như sau: “Đoàn thanh tra chuyên ngành có Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, thành viên đoàn thanh tra, công chức thanh tra chuyên ngành...”, như vậy, có thể hiểu Đoàn thanh tra chuyên ngành phải có 4 thành phần trên, trong thực tế sẽ không hoặc khó thực hiện được, lý do vì ở cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (đơn vị trực thuộc, chi cục thuộc sở) sẽ không có thanh tra viên theo đúng quy định này.

*) Hình thức thanh tra: Điều 37 Luật thanh tra quy định có các hình thức thanh tra là thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên, thanh tra độc lập và thanh tra đột xuất. Tuy nhiên Nghị định 07/2012/NĐ-CP chỉ quy định thanh tra chuyên ngành theo kế hoạch và thanh tra chuyên ngành đột xuất. Việc thực hiện thanh tra thường xuyên như thế nào hiện vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, do vậy có những khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.

*) Luật Thanh tra hiện hành đã quy định rõ hơn về trình tự, thủ tục tiến hành thanh tra. Tuy nhiên, qua thực tiễn, một số ngành phản ánh quy định về trình tự, thủ tục hoạt động thanh tra chuyên ngành hiện nay thường chỉ phù hợp với hoạt động thanh tra hành chính, thanh tra kinh tế - xã hội, thanh tra hành chính, không phù hợp hoạt động thanh tra trong một số ngành như an toàn, vệ sinh thực phẩm, môi trường, y tế... Hoạt động thanh tra của những ngành này mang tính chất thường xuyên, thanh tra, kiểm tra kịp thời, “bắt quả tang” tại chỗ đối với các cơ sở vi phạm. Ngay đối với hoạt động thanh tra theo kế hoạch của những ngành này, việc phải gửi Quyết định thanh tra đến đối tượng thanh tra trước khi đến thanh tra đã đánh động đối tượng thanh tra xóa dấu vết dẫn đến đoàn thanh tra chuyên ngành khó phát hiện thấy sai phạm. Bên cạnh đó, việc công bố quyết định thanh tra trước khi thanh tra đột xuất thường làm cho đối tượng thanh tra xóa dấu vết của các hành vi đang vi phạm trong một số lĩnh vực như lĩnh vực an toàn thực phẩm, y tế, dược phẩm,.... 

*) Về thời hạn thanh tra, nhiều đoàn thanh tra thường kéo dài, vi phạm thời gian quy định của pháp luật, không đáp ứng được yêu cầu khẩn trương, kịp thời của công tác quản lý nhà nước. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân như việc chuẩn bị, nắm thông tin chưa được kỹ lưỡng; nhiều cuộc thanh tra phức tạp cần phải thẩm tra, xác minh như trong lĩnh vực đất đai; do cản trở, chống đối của đối tượng thanh tra và cũng do thời hạn  thanh tra được quy định không đủ cho hoạt động đặc trưng ngành.

*) Về việc gửi Kết luận thanh tra trong một số cuộc thanh tra chuyên ngành diện rộng cũng gặp vướng mắc, đối với các Kết luận thanh tra của các Đoàn thanh tra diện rộng của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (về an toàn vệ sinh thực phẩm, dược phẩm, cơ sở y tế,.v..v..) một số bộ ngành (Bộ NN&PTNT, Bộ Y tế) chỉ gửi Thông báo kết luận thanh tra cho đối tượng vì số lượng đối tượng của các Đoàn thanh tra này rất lớn, các kết luận về các đối tượng là khác nhau, không thể gửi toàn bộ Kết luận thanh tra đến đối tượng.

III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

Trên cơ sở các khó khăn vướng mắc trong tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành, kiến nghị sửa Luật Thanh tra 2010 vào năm 2018. Trong đó, tập trung nghiên cứu sâu sắc, toàn diện các chế định sau để tiến hành sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn:

- Tập trung vào các nội dung đánh giá hiệu quả mô hình các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành,  các quy định về trình tự, thủ tục hoạt động hanh tra chuyên ngành, các quy định về thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành,... để có định hướng đúng đắn trong việc sửa Luật Thanh tra.

- Tăng cường tính độc lập của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp để tăng cường vai trò của cơ quan thanh tra trong việc đảm bảo kỷ cương, pháp luật nghiêm minh.

- Quy định thủ tục cụ thể đối với từng loại hình hoạt động thanh tra chuyên ngành, ví dụ như thủ tục thanh tra khi tiến hành thanh tra theo Đoàn; thủ tục thanh tra khi người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập; thủ tục thanh tra khi tiến hành thanh tra thường xuyên; thủ tục thanh tra khi tiến hành thanh tra đột xuất...

- Có các quy định đồng bộ về thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành, số lượng biên chế,...  để tăng cường nhân sự có chất lượng cho ngành thanh tra.

 

 

 

 

[1] Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra; Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 09/022012 quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra  chuyên ngành; Nghị định 97/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 quy định về thanh tra  viên và cộng tác viên thanh tra; Nghị định 83/2011/NĐ-CP ngày 09/10/2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra  Chính phủ; Nghị định số 92/2014/NĐ-CP ngày 8/10/2014 sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 16 Nghị định 97/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2014 quy định về thanh tra  viên và cộng tác viên thanh tra;  Nghị định 33/NĐ-CP/ về thực hiện kết luận thanh tra.

[2] Nghị định 87/2015/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính đối với doanh nghiệp do nhà nước làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn nhà nước; Nghị định 49/2014/NĐ-CP ngày 20/05/2014  quy định về giám sát, kiểm tra, thanh tra  đối với doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ quyết định của chủ sở hữu

[3] Bổ sung Cảng vụ hàng không thuộc Cục Hàng không, Cảng vụ Hàng hải thuộc Cục Hàng hải, Cảng vụ đường thủy nội địa thuộc Cục đường thủy nội địa, Chi cục đường thủy nội địa thuộc Cục đường thủy nội địa, Cơ quan quản lý đường bộ ở khu vực thuộc Tổng cục đường bộ Việt Nam (Nghị định số 57/2013/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành giao thông vận tải); Bổ sung Trung tâm tần số tuyến điện khu vực thuộc Cục tần số (theo Nghị định số 140/2013/NĐ-CP ngày 20/10/2013); Bổ sung Cục Bổ trợ Tư pháp,  Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (Nghị định số 54/2014/NĐ-CP ngày 29/05/2014)

Các tin khác